Bệnh whitmore là gì?
Bệnh melioidosis còn được gọi là bệnh whitmore, là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do vi khuẩn gram âm Burkholderia pseudomallei gây ra. Căn bệnh này được phát hiện đầu tiên trên thế giới vào năm 1911.
Vi khuẩn B. pseudomallei sống trong bùn đất và nước, lây truyền cho người và động vật chủ yếu qua vùng da tổn thương do tiếp xúc với vi khuẩn hoặc hít phải các hạt bụi đất chứa vi khuẩn. Hiện ghi nhận rất hiếm các trường hợp lây bệnh từ người qua người hay từ động vật qua người.
Bệnh lưu hành chủ yếu tại vùng nhiệt đới, đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á, phổ biến nhất là Thái Lan, Malaysia, Singapore và bắc Australia.
Tại vùng đông bắc Thái Lan, nghiên cứu năm 2009 do Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC Hoa Kỳ) phối hợp thực hiện cho thấy, tỉ lệ mắc whitmore trong dân số là 14,9/100.000 người, trong đó nam giới chiếm 60%.
Thời gian ủ bệnh whitmore từ 1-21 ngày, trung bình 9 ngày nhưng cũng có trường hợp chỉ vài giờ. Trong giai đoạn này thường không có triệu chứng.
Bệnh thường xuất hiện nhiều vào mùa mưa ẩm. Vi khuẩn có thể sống nhiều năm trong đất và nước bị ô nhiễm.
Loại vi khuẩn này cũng được coi là mối nguy tiềm tàng dẫn tới chiến tranh sinh học hay khủng bố sinh học. Đến nay, B. pseudomallei là một trong những vi khuẩn có bộ gene di truyền phức tạp nhất.
Người khoẻ mạnh cũng có thể mắc whitmore nhưng những trường hợp có hệ miễn dịch suy yếu như người nhiễm HIV, ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, bệnh gan, thalassemia, tiểu đường, bệnh thận... sẽ có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn.
Dấu hiệu bệnh whitmore
Theo CDC Hoa Kỳ, sau khi bị vi khuẩn xâm nhập, thường sau 2-4 tuần, các triệu chứng bệnh bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, các triệu chứng của bệnh rất mơ hồ, chẩn đoán rất khó nên dễ bị chẩn đoán nhầm sang các bệnh khác như lao, các bệnh về phổi, nhiễm khuẩn huyết...
- Nhiễm trùng cục bộ: Bệnh nhân sẽ đau hoặc sưng cục bộ, sốt, loét, áp xe tại vị trí nhiễm trùng
- Nhiễm trùng phổi: Sốt cao, đau đầu, đau ngực kèm ho, chán ăn
- Nhiễm trùng máu: Sốt, đau đầu, suy hô hấp, đau khớp, khó chịu ở bụng
- Nhiễm trùng lan toả: Sốt, giảm cân, đau dạ dày hoặc ngực, đau cơ hoặc khớp, đau đầu, co giật hoặc có các cơn động kinh.
Để chẩn đoán bệnh whitmore, bác sĩ phải thực hiện phân lập vi khuẩn từ máu, đờm, nước tiểu, dịch áp xe của bệnh nhân. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể sử dụng xét nghiệm kháng thể trong máu để chẩn đoán bệnh nhưng độ tin cậy thấp hơn so với cấy vi khuẩn.
Điều trị whitmore
Tuỳ từng loại nhiễm trùng, bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc thích hợp để điều trị whitmore. Thông thường, điều trị chia làm 2 đợt: Đợt 1, tấn công bằng kháng sinh liều cao (thường truyền tĩnh mạch) trong 10-14 ngày. Đợt 2, dùng kháng sinh đường uống duy trì trong 3-6 tháng kế tiếp.
2 loại kháng sinh truyền tĩnh mạch điều trị whitmore phổ biến nhất là Ceftazidime, dùng mỗi 6-8 giờ hoặc Meropenem dùng mỗi 8 giờ. Các loại kháng sinh đường uống bao gồm: Trimethoprim-sulfamethoxazole hoặc Amoxicillin / axit clavulanic (co-amoxiclav) được thực hiện mỗi 8 giờ. Với những bệnh nhân nặng, bác sĩ có thể kết hợp cùng lúc nhiều loại thuốc.
Với những bệnh nhân áp xe phổi, nếu sau 6 tháng, bệnh nhân vẫn còn khối áp xe, khi đó bác sĩ sẽ xem xét phẫu thuật cắt bỏ.
Nếu bệnh nhân không tuân thủ điều trị, nguy cơ tái phát vẫn có thể xảy ra, khi đó tiên lượng điều trị sẽ khó khăn hơn nhiều.
Khi nhiễm whitmore, nếu không được điều trị sớm, bệnh nhân sẽ diễn tiến nặng dẫn tới nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm trùng rồi tử vong. Tỉ lệ tử vong chung khi nhiễm whitmore là 40%.
Cách phòng ngừa bệnh
Hiện nay chưa có vắc xin phòng bệnh whitmore, nên phòng bệnh cần được trú trọng. Do vi khuẩn thường có trong bùn đất, nước nên người dân, đặc biệt là các đối tượng nguy cơ cao cần hạn chế tiếp xúc trực tiếp với đất hoặc nước ô nhiễm. Nông dân khi làm đồng nên đeo ủng, găng tay.