Tháng 5/2013, UBND huyện điều động ông Châu về Văn phòng HĐND và UBND huyện làm việc. Trong quyết định có nêu thời gian nâng lương lần sau của ông được tính kể từ ngày 1/4/2013. Ông Châu muốn được biết, thời gian nâng lương lần sau của ông như vậy có đúng quy định không?
Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời câu hỏi của ông Châu như sau:
Theo Thông tư số 15/2001/TT-BTCCBCP ngày 11/4/2001 của Ban Tổ chức Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn thực hiện Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 của Chính phủ về thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, thì người lao động thực hiện hợp đồng lao động tại cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp được áp dụng thang lương, bảng lương do nhà nước quy định, được áp dụng chế độ nâng bậc lương, nâng ngạch, chuyển ngạch, chuyển loại như cán bộ, công chức, viên chức.
Việc xếp lương khi chuyển loại công chức, viên chức được quy định tại khoản 3, Mục II Thông tư số 02/2007/TT-BNV ngày 25/5/2007 như sau: Trường hợp công chức, viên chức đủ tiêu chuẩn và điều kiện được cấp có thẩm quyền quyết định chuyển loại công chức, viên chức từ loại A0 sang loại A1; từ loại B, loại C sang loại A (gồm A0 và A1) hoặc từ loại C sang loại B, thì thực hiện như cách xếp lương khi nâng ngạch công chức, viên chức hướng dẫn tại khoản 1, Mục II Thông tư này như sau:
Trường hợp chưa hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung ở ngạch cũ thì căn cứ vào hệ số lương đang hưởng ở ngạch cũ để xếp vào hệ số lương bằng hoặc cao hơn gần nhất ở ngạch mới. Thời gian hưởng lương ở ngạch mới được tính kể từ ngày ký quyết định bổ nhiệm vào ngạch mới.
Thời gian xét nâng bậc lương lần sau ở ngạch mới được tính như sau: Nếu chênh lệch giữa hệ số lương được xếp ở ngạch mới so với hệ số lương đang hưởng ở ngạch cũ bằng hoặc lớn hơn chênh lệch hệ số lương giữa 2 bậc lương liền kề ở ngạch cũ, thì được tính kể từ ngày ký quyết định bổ nhiệm vào ngạch mới; nếu nhỏ hơn chênh lệch hệ số lương giữa 2 bậc lương liền kề ở ngạch cũ, thì được tính kể từ ngày xếp hệ số lương đang hưởng ở ngạch cũ.
Trường hợp ông Nguyễn Thế Ngọc Châu, làm việc tại Ban Quản lý dự án trực thuộc UBND huyện theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, được hưởng lương hệ số 2,66, là hệ số lương bậc 5 ngạch cán sự (Công chức, viên chức loại B) có trình độ trung cấp (bảng lương số 2, số 3 ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP) từ tháng 7/2011, đến tháng 7/2013 ông sẽ đủ thời gian nâng bậc lương thường xuyên, lên bậc 6 ngạch cán sự, hệ số 2,86.
Ngày 1/4/2013, ông nộp bằng tốt nghiệp Đại học nên đã được Ban Quản lý dự án xếp lương hệ số 2,67, là hệ số lương bậc 2, ngạch chuyên viên (công chức, viên chức loại A1), trình độ đại học (bảng lương số 2, số 3 ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP).
Căn cứ quy định tại khoản 3, Mục II và khoản 1, Mục II, Thông tư số 02/2007/TT-BNV, vào thời điểm được xếp chuyển lương, ông đang hưởng lương cán sự, hệ số 2,66 được xếp lương chuyên viên, hệ số 2,67 là đúng quy định.
Về thời gian xét nâng bậc lương lần sau ở ngạch mới: Do chênh lệch giữa hệ số lương được xếp ở ngạch mới so với hệ số lương đang hưởng ở ngạch cũ (2,67 – 2,66 = 0,01) nhỏ hơn chênh lệch hệ số lương giữa 2 bậc lương liền kề ở ngạch cũ (chênh lệch giữa 2 bậc lương liền kề ở ngạch cán sự là 0,20), nên thời gian xét nâng lương của ông Châu được tính kể từ ngày hưởng lương bậc 5 ở ngạch cán sự (tháng 7/2011). Thời hạn nâng bậc lương thường xuyên của ngạch chuyên viên là đủ 3 năm. Đến tháng 7/2014, ông đủ thời gian để xét nâng lương bậc 3 ngạch chuyên viên, hệ số 3,0.
Việc tính thời gian nâng bậc lương lần sau của ông Châu kể từ ngày 1/4/2013 là không đúng quy định nêu trên.